Đức Phật khuyên chúng ta “Hãy trở về mà thấy”. Mạnh Tử nói: “Trời đất đầy đủ nơi ta, chân thành trở về với chính mình, không hạnh phúc nào lớn hơn”. Huệ Năng nói: “Không ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”.
Con người từ lúc mới sơ sinh đã biết hướng ra thế giới bên ngoài để thu thập những thông tin cần thiết cho đời sống. Đến bốn năm tuổi đã tích lũy được những kiến thức cơ bản để có thể xử lý những sinh hoạt thông thường. Sau đó nhờ học tập từ gia đình, bè bạn, học đường và cộng đồng xã hội; kết hợp với khả năng tư duy, chiêm nghiệm, phán đoán mà kỹ năng và kinh nghiệm ngày càng phong phú, đa dạng và cũng càng phức tạp hơn.
Nếu một người không thể tiếp thu thông tin cần thiết từ bên ngoài thì anh ta chỉ có thể sống một đời sống thực vật. Vì vậy, hướng ra bên ngoài không phải là một sai lầm - mà đó chính là điều kiện tiến hóa tất yếu của đời sống con người trong cộng đồng xã hội.
Cái sai đưa đến phiền não, khổ đau, chán chường, thất vọng… chính là ở chỗ: Con người không biết rằng mình đã dần dần bị dính mắc, sa lầy, sống lệ thuộc vào thế giới bên ngoài đến độ hoàn toàn bỏ quên chính mình - vong thân - và tha hóa... Albert Camus đã giật mình khi phát hiện rằng, mình không còn là chính mình nữa mà đã trở thành một kẻ lạ mặt tự bao giờ!
Trên mỗi đối tượng tiếp xúc hàng ngày, chúng ta không ngừng gia thêm những tình cảm, chẳng hạn như ưa, ghét, tham, sân... rồi tùy thuộc vào những cảm tính đó chúng ta chủ quan chọn lựa, lấy bỏ.
Ở một mức độ nào đó, điều này xem ra cũng là chuyện tự nhiên, bình thường; nhưng khi những thái độ này ngày càng được tích luỹ, vun bồi, gia tăng, phát triển cho đến khi trở nên quá sâu dày, kiên cố... thì bắt đầu trở nên nguy hiểm!
Tại sao? Lý do là chúng ta đã hình thành những thành kiến, cố chấp, hận thù, oan kết hay những say mê, chìm đắm trong thế giới bên ngoài, đến độ chúng ta đánh mất khả năng quay trở lại chính mình.
Điều này biểu hiện quá rõ đối với những người ghiền cờ bạc, rượu chè, ma tuý... Nhưng thật ra, ít nhiều gì chúng ta cũng đều sống trong một mức độ vong thân nào đó. Bằng chứng là khi yêu ai hay giận ai, khi thất bại hay nhục nhã… chúng ta có thể quên ăn, mất ngủ, đứng ngồi không yên; kẻ thì lo âu, sợ hãi, người lại thất thần, đãng trí…
Kết quả tâm lý ấy đơn giản chỉ vì chúng ta đã bị dính mắc khá sâu vào ngoại cảnh. Lúc đó, chúng ta muốn nghỉ ngơi, thanh thản dù chỉ trong chốc lát cũng không phải dễ dàng gì!
Trường hợp trên giống như ví dụ này: Tâm chúng ta co giãn như một sợi dây thun. Nếu sợi dây thun bị kéo quá căng và dính kẹt vào một vật nào đó, một lát hay một vài lần thôi thì có vẻ như không sao; nhưng nếu bị kéo căng lâu ngày hay nhiều lần thì sợi thun khó có thể trở lại trạng thái bình thường ban đầu.
Cho nên, một khi đã bị căng giãn bất khả hồi thì xem như dây thun đã hỏng. Một cái cân lò xo cũng vậy, nếu cân quá tải nhiều lần, nó có thể bị giãn ra và không trở về số không được nữa! Trường hợp cái cân bị hỏng thì ai cũng dễ dàng phát hiện, nhưng ít ai có thể nhận ra cái tâm mình đã bị hư hỏng quá nặng một khi nó bị dính mắc quá nhiều không còn rỗng rang, thư thái được nữa.
Bạn có thể ngồi yên lặng một lát được không? Khó lắm, nếu như bạn đang bị ràng buộc vào một cái gì đó, bấy giờ cái tâm của bạn đang tự biểu lộ là nó đã bị lệ thuộc và dính mắc đến mức độ nào.
Một người đang bận tâm, hay đang chìm sâu trong những kỷ niệm vui buồn quá khứ, đang toan tính cho một viễn ảnh tương lai, đang mong cầu một sở đắc, đang tức giận hoặc say mê ai đó… thì khó có thể tập trung vào hiện tại hay trở lại với chính mình.
Khi chúng ta phiền não, khổ đau, lo âu, sầu muộn… tức là chúng ta đang để cho ngoại cảnh can dự quá nhiều vào đời sống nội tại của mình.
Trước hết chúng ta phải thấy ra tình trạng vong thân, tha hóa này để tự cứu mình ra khỏi sự lệ thuộc, sự dính mắc, sự buộc ràng vào thế giới xung quanh.
Khi chúng ta gỡ sợi dây thun ra khỏi chỗ dính mắc, phản xạ đầu tiên là nó sẽ trở về tình trạng tự nhiên ban đầu của nó. Cũng vậy, sau khi được thư giãn, buông xả, nghỉ ngơi hoàn toàn, tâm trí chúng ta sẽ tự quay về với thực tại thân - thọ - tâm - pháp. Trở về thực tại, Thiền Vipassanā gọi là chánh niệm, và Thiền Tông gọi là hồi quang phản chiếu.
Tâm có chánh niệm thì không lang thang hướng ngoại hay bỏ mặc chính mình -không thất niệm ngay nơi thực tại thân tâm đang diễn ra trong mỗi người.
Tuy nhiên, trở về với chính mình không phải là trở về khởi điểm đã trôi vào quá khứ, mà chính là trở về tình trạng đang là - thay vì cố gắng giải quyết, chọn lựa, lấy bỏ đối tượng. Ngay lúc đó, bạn chỉ cần trọn vẹn với thực tại mà không cần thêm bớt bất cứ điều gì.
Có thể bạn chánh niệm trên một đối tượng bên ngoài, hãy trọn vẹn với đối tượng ấy, không xao lãng, cũng không chìm đắm là được.
Sau đây là một vài gợi ý điển hình giúp bạn dễ dàng trở về với thực tại:
- Có thể bạn thấy mình đang thở, cứ để yên cho nó tiếp tục thở như nó là, đừng thêm bớt gì cả. Nhớ là đừng thêm động tác nào nhằm làm chủ nó, hãy để hơi thở làm công việc tự nhiên của nó, đó chẳng phải là sở trường của nó sao?
Nhiều người tưởng rằng thiền hơi thở là phải thở theo một cách nào đó để định tâm, nhưng làm như vậy bạn lại xen vào trạng thái tự nhiên của hơi thở, đồng thời bạn bị rơi vào qui trình của sự dính mắc bên trong. Trừ phi bạn đang tập kỹ thuật dưỡng sinh, yoga hay khí công gì đó.
Không dính mắc, không có nghĩa là hoàn toàn bỏ rơi thế giới bên ngoài. Đời sống là một sự tương giao gắn bó trong ngoài. Nếu bạn dính vào bên ngoài thì quên mất bên trong, và ngược lại. Thế là bạn tự cô lập, phân ranh, một chiều, tức là bạn chỉ sống được một nửa sự sống của bạn mà thôi! Hay đúng hơn, bạn vẫn còn bị vướng kẹt bên lề cuộc sống vốn luôn trôi chảy không ngừng.
Đức Phật lấy ví dụ một khúc gỗ trôi giữa dòng sông. Nếu nó kẹt vào bờ bên này hay bờ bên kia thì nó không thể thuận dòng ra biển cả.
Sự sống là dòng sông, là dòng pháp. Hãy sống thuận dòng, thuận pháp, đừng bơi ngược dòng cũng chớ đắm chìm trong đó. Đối đầu và mê đắm chính là bản chất của sự dính mắc chấp thủ.
Vậy hãy để tâm bạn làm việc nên làm, không cần ngưng trụ. Chỉ cần bạn đừng quên mình đang thở thôi là đủ rồi. Đừng bắt hơi thở phải thế này, thế kia với ý đồ định tâm hay vì một mục đích tương lai nào khác. Làm thế, bạn vô tình dựng lên cái ngã tạo tác đầy tham vọng điều khiển theo ý mình.
- Khi đang đi, đứng, ngồi hay nằm, hãy trọn vẹn với trạng thái diễn biến ấy. Đừng để tâm lang thang ra khỏi động thái của thân và đừng để cái ngã quản lý có cơ hội xen vào.
Tâm không an trú nơi thân gọi là tâm bất tại, thất niệm hay phóng tâm. Tâm cùng hợp nhất với thân gọi là tự tại, nhất như, hay chánh niệm.
Nhất như không có nghĩa thân tâm (danh sắc) là một - mà là một sự kết hợp tự nhiên, hài hòa và đồng bộ với nhau. Rõ hơn, là tâm không bỏ quên thân vì bị thu hút bởi đối tượng của tham sân si… Đó là ý nghĩa đích thực của chánh niệm.
Tuy nhiên, bạn đừng quá chú ý vào những trạng thái đi, đứng, ngồi, nằm này với tham vọng trụ tâm hay để tìm kiếm điều gì trong đó; vì như thế tâm bạn lại bị dính vào một đối tượng hay một mục đích khiến bạn phải phân tâm hay ngưng trệ - nghĩa là không thể chánh niệm một cách trọn vẹn với thực tại đang là.
Trở về trọn vẹn với đi, đứng, ngồi, nằm chủ yếu là không để rơi vào tình trạng vong thân, tha hoá, chứ không có nghĩa là tự cô lập mình với thế giới bên ngoài.
- Nếu bạn có khả năng bao quát hơn, có thể thấy mình trong mọi sinh hoạt hàng ngày của bạn, chẳng hạn như ăn uống, tắm giặt, nấu nướng, lau quét, lái xe, mở cửa, đóng cửa, mặc áo, mang giày...
Dầu bạn làm gì cũng không quên mình thì thật là tuyệt vời. Được như vậy, bạn có thể ung dung, tự tại khi làm gì cũng không ra ngoài chánh niệm nơi thực tánh tự nhiên. Lúc đó, tâm bạn sáng suốt, trong lành và ổn định một cách tự nhiên, không cần gia tâm toạ thiền hay nhập định gì cả.
- Sâu sắc hơn, bạn có thể trọn vẹn được một cách trung thực những cảm giác trên thân như đau nhức, nóng nực, mát mẻ, êm ái… hoặc những cảm xúc trong tâm như vui vẻ, buồn bực, bức xúc, thanh thản…
Trở về trên thân tương đối dễ, nhưng trở về với những cảm giác thì khó hơn nhiều. Vì khi có cảm giác khổ chúng ta thường muốn chấm dứt nó ngay, và vô tình làm gia tăng cảm giác khổ ấy. Khi có cảm giác lạc chúng ta thường muốn níu giữ nó lại, vì vậy, biến nó thành nỗi khổ của sự lo sợ mất mát.
Chúng ta càng bị trói buộc vào bên ngoài, thì bên trong những cảm giác càng gia tăng; nhưng, hoặc là chúng ta quên mất không hề hay biết, hoặc là chúng ta bóp méo, nhồi nắn nó một cách chủ quan tuỳ theo độ dính mắc sâu cạn, ít nhiều.
- Vi tế hơn, khi tâm bạn ưa thích hay bất bình, nó thường hướng chú ý vào đối tượng hơn là chính nó, nơi đã phát sinh ra những thái độ phản ứng ấy.
Vì vậy, khi yêu thương, hờn giận, hài lòng, bất mãn… bạn chỉ lo quan tâm đến đối tượng bên ngoài mà không thấy chỗ xuất phát thái độ bên trong, đó là cái tâm của bạn!
Như vậy, phản ứng theo thói quen, bạn chỉ lo đối phó với tình hình bên ngoài mà quên rằng cái quan trọng chính là thái độ phản ứng của tâm mình! Nhưng bạn thường không muốn biết tâm mình đang như thế nào mà chỉ muốn biết đối tượng ra sao. Như thế là bỏ gốc theo ngọn.
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, bạn đừng bắt tâm dừng lại, cũng đừng buông thả cho nó chạy rong! Bạn chỉ cần nhìn lại hiện trạng tâm mình là đủ rồi! Cứ để mọi việc tự động điều chỉnh, bạn không cần phải gia công giải quyết, kiểm duyệt, phê phán hay biện minh gì cả.
Tóm lại, chúng ta giống như những người ham tìm kiếm thú vui hoặc bất mãn với hoàn cảnh hiện tại mà bỏ nhà ra đi mong cầu đạt được sở thích, ước nguyện!
Bằng cách ấy, chúng ta cứ ra đi, đi mãi, quên cả đường về, đành phải tha phương cầu thực, nay đây mai đó; lang thang theo những bước thăng trầm trong niềm vui, nỗi khổ bên ngoài mà không biết rằng nhà mình xưa nay vốn đầy đủ tất cả, chẳng thiếu điều gì.
Vì thế, đừng lang thang tìm cầu một miền đất hứa, mà quên đi ngôi nhà sẵn có của mình, đó là thực tại hiện tiền. Đức Phật khuyên chúng ta “Hãy trở về mà thấy” (Ehipassiko). Rõ hơn, Ngài dạy: “Ta, quả thật là nơi nương nhờ của ta, ai khác có thể là nơi nương nhờ?, Khi ta đã thuần tịnh, đó là nơi nương nhờ khó được”.
Mạnh Tử nói: “Trời đất đầy đủ nơi ta, chân thành trở về với chính mình, không hạnh phúc nào lớn hơn”.
Huệ Năng nói: “Không ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ”.
Cô đọng lại, trở về thực tại giúp chúng ta:
- Hóa giải những ràng buộc: Người có chánh niệm ít khi bị dính mắc, và nếu có bị dính mắc thì cũng thoát khỏi dễ dàng hơn những người thất niệm.
- Sống an nhiên tự tại: Người bỏ quên chính mình thì không thể an nhiên, tự tại; do đó cũng không thể thanh thản, thoải mái. Điều này chỉ có được nơi người luôn sống trọn vẹn với thực tại hiện tiền.
- Trí nhớ tốt hơn: Khi đã bị dính mắc vào một điều gì người ta thường hay quên, hay lảng trí. Trái lại, người có chánh niệm tuy không cố ý ghi nhớ điều gì nhưng vẫn dễ dàng nhớ được điều mình đã làm.
- Dễ dàng định tâm: Khi tâm đang bận rộn lo nghĩ về một điều gì, như tưởng nhớ hay tức giận một ai đó thì rất khó tập chú vào công việc hiện tại. Hành động trở nên vụng về, không chính xác. Người chánh niệm nhờ trọn vẹn với mình nên rất dễ dàng tập trung tâm ý trong hiện tại.
- Bảo toàn nguyên khí: Theo nguyên lý y học cổ truyền phương Đông thì “Tinh thần nội thủ” không những có thể bảo toàn được nguyên khí khỏi bị phân tán, mà còn phát huy được nội lực chân chính.
- Dễ dàng tự chủ: Một người tinh thần bị phân tán đã không thể chú tâm thì làm sao có thể tự điều phục được. Giống như một người lái xe bị ngoại cảnh chi phối không thể điều khiển tốc độ hay hướng đi thích ứng được nên rất dễ gây ra tai nạn. Còn người chánh niệm không cần cố gắng vẫn có thể tự chủ một cách rất tự nhiên.
Hỏi:
- Thầy nói, trong quan hệ với ngoại giới, chúng ta thường quan tâm đến đối tượng mà quên chính mình, như vậy là bỏ gốc lấy ngọn. Có phải ý thầy muốn nói đừng quan tâm đến người khác, chỉ nên lưu ý đến tâm tư nguyện vọng của mình?
Đáp:
- Không phải vậy, chỉ quan tâm đến ý muốn của mình - mà không để ý đến tâm tư nguyện vọng của người khác là ích kỷ. Chúng ta cần phải quan sát, lắng nghe hay học hỏi những người xung quanh, nhưng cũng không được bỏ quên chính mình, không để bị tha hoá.
Tùy trường hợp mà chúng ta quan tâm bên trong, bên ngoài hay cả hai. Vì chúng ta thường quá quan tâm đến đối tượng bên ngoài đến độ quên lãng chính mình, do đó cần phải trở về với mình trước. Khi tâm đã tương đối an ổn thì nên hướng tâm quan sát thế giới xung quanh; và khi tâm đã vững vàng, sáng suốt thì chúng ta có thể quan sát cả trong lẫn ngoài mà không bị thiên lệch.
Hỏi:
- Khi đi bộ trên phố hay lái xe ngoài đường - nếu chánh niệm - chúng ta chỉ quay vào trong trọn vẹn với thân-thọ-tâm-pháp, không quan tâm bên ngoài liệu có gây tai nạn không?
Đáp:
- Tất nhiên nếu bạn chỉ chăm chú vào trong mà không quan tâm bên ngoài thì rất dễ gây tai nạn, nhất là khi ở chỗ đông người hay nơi nguy hiểm. Như chúng ta đã biết, quá chăm chú vào trong sẽ bị dính mắc bên trong, và ngược lại, quá quan tâm bên ngoài thì dễ bị vong thân.
Khi bạn đang đi bộ hay lái xe mà bị lôi cuốn vào một đối tượng nào đó, dù trong hay ngoài; ví dụ như bạn đang chìm đắm trong ý nghĩ hận thù hay thương tiếc, lúc đó, bạn quên rằng mình đang đi hay đang lái xe, và tất nhiên bạn rất dễ gây tai nạn giao thông. Đó là thất niệm chứ không phải chánh niệm. Khi chánh niệm bạn đã nhất tâm, không phân tán, không quên mình, nên bạn có thể chú tâm trọn vẹn với việc lái xe hay đi bộ.
Chánh niệm không phải là chỉ chuyên chú vào thân-thọ-tâm-pháp như những đối tượng đơn độc, tách biệt và cố định - mà là thân-thọ-tâm-pháp diễn biến trong mối quan hệ tương giao duyên khởi với thế giới bên ngoài.
Ví dụ như khi đang đi trên phố, nếu tâm bạn bị cuốn hút trong một mối lo toan nào đó, bạn có thể va vấp hoặc đụng chạm vào người khác; nhưng khi chánh niệm, tâm trí bạn bén nhạy đến nỗi có thể cảm nhận được mọi diễn biến xung quanh mà vẫn không quên chính mình.
Sai lầm của bạn là không thấy được sự khác biệt giữa niệm và định, hay giữa trọn vẹn với thực tại và sự tập chú vào bên trong điều này có thể cần thiết khi bạn thiền định. Tuy nhiên, thiền định cần một nơi an toàn để thực hiện, còn đang lái xe hay đi trên đường phố thì bạn cần phải chánh niệm mới an toàn.
Hỏi:
- Thầy nói chánh niệm là trọn vẹn với thực tại? Vậy khi tham dục, sân hận, ngã mạn sinh khởi… cũng cứ trọn vẹn với chúng hay sao? Thế thì làm sao đoạn tận tham, sân, si như đức Phật dạy được?
Đáp:
- Bạn thử xem xét thật kỹ tình huống sau đây: để dỗ một em bé đang khóc – có phải mục đích của bạn là làm cho bé ngừng khóc hay là bạn nên hết lòng thương yêu, thông cảm và chia sẻ với toàn bộ hoàn cảnh của bé?
Nếu bạn chỉ muốn bé đừng khóc vì lợi ích của riêng bạn, chứ không cần thấu rõ con bạn khóc vì nỗi gì, thì không bao giờ bạn hiểu được bé. May là bé khóc để bạn biết con mình đang đói hay khát, nóng hay lạnh… vậy bạn cần chia sẻ một cách trọn vẹn với bé chứ đừng chỉ cố tìm cách bắt bé đừng khóc.
Một điều kỳ diệu là chính sự yêu thương trọn vẹn sẽ làm bé ngưng khóc! Và cũng chỉ có chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn mới hóa giải được tham sân.
Trọn vẹn với tham sân trong chánh niệm, tỉnh giác khác hẳn với bị chìm đắm và cuốn trôi trong tham sân một cách mê muội. Nói cách khác, khi tỉnh giác, trọn vẹn với tham sân là trọn vẹn với mình (chánh niệm); khi mê muội, đắm chìm trong tham sân là quên lãng chính mình (thất niệm) đấy.
Trở về thực tại - Viên Minh - Văn hóa Phật giáo 70