Viên Minh & Trần Minh Tài
--- o0o ---
Trí tuệ là điều kiện tối hậu để thấu triệt chân lý. Trong tam học (Giới, Định, Huệ), Giới và Định chỉ có mục đích mở đường cho sự rèn luyện trí huệ. Nếu Giới (Sìla) làm thanh tịnh thân và khẩu, Định (Sàmàdhi) khả dĩ giúp tâm an trụ, thanh tịnh và chân chính thì Huệ (Pannà) phát huy phần tâm linh quan trọng nhất của con người là trí năng, để đạt đến cứu cánh giải thoát.
Hành giả dù có hạnh nguyện Bồ Tát, Thanh Văn hay Độc Giác đều cần phải luôn luôn tinh tấn dùi mài gươm Trí Huệ để cắt đứt tận gốc rễ những vọng thấp, phiền não hay những ô nhiễm nội tại dưới mọi hình thức, ngấm ngầm hay bộc phát mãnh liệt, đang chi phối đời sống của họ. Trí huệ còn là một trong 10 pháp Ba La Mật (Paramì) tức là Thập độ mà một vị Bồ Tát muốn trở thành bậc Chánh đẳng Chánh Giác phải chuyên trì bất thối chuyển. Chính Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, lúc còn là một vị Bồ Tát, đã lấy trí huệ làm chính hạnh khi thực hành Pháp Thập độ.
Trước khi nói đến ba nguyên nhân phát sanh trí huệ, chúng ta thử bàn qua nghĩa của danh từ trí huệ là gì. Trong Phạn ngữ có rất nhiều danh từ được dịch là trí huệ, nhưng nghĩa của chúng có ít nhiều sai khác như Pannà, Nàna, Patisambhidà, Bodhi...
Pannà là biện tướng trí: trí huệ phân biệt được chân tướng vô thường, khổ não, vô ngã của hiện tượng giới.
Patisambhidà là minh giải trí: trí huệ phân tích và biện giải các pháp một cách minh bạch.
Nàna là phá tướng trí: trí huệ trực nhận chân lý, phá chấp tướng của vạn hữu. Phá tướng trí chính là trí huệ của Chư Phật và chư Bồ Tát bất thối.
Bodhi người ta thường quen gọi là Bồ Đề tức trí giác ngộ, trí của bậc huyền thông đạo lý, dứt trừ phiền não, vọng chấp.
Tuy được dịch từ nhiều danh từ Phạn ngữ có nghĩa sai khác nhưng tựu trung trí huệ có nhiệm vụ tối hậu và tất yếu là diệt tận vô minh để nhận chân được lý nhân quả, luật thành trụ dị diệt và nhất là thấy rõ được ba chân tướng của vạn hữu là vô thường, khổ não và vô ngã.
Vì trí huệ đã đóng vai trí quan trọng như thế trong lý tưởng giải phóng con người ra khỏi vọng chấp, nên chắc hẳn Đức Phật phải chỉ dạy cho chúng sanh phương pháp rèn luyện trí huệ. Thật vậy, chính Ngài đã chỉ cho chúng ta ba nguyên nhân phát sanh trí huệ:
1- Nghe nhiều học rộng: Một trong mười điều đem lại lợi ích cho sự giải thoát mà Đức Phật đã dạy là Bahussutà tức đa văn. Đa văn ở đây ám chỉ nghe nhiều Chánh Pháp.
Theo kinh điển để lại, trong suốt 45 năm hoằng dương Giáo Pháp của Đức Phật, có rất nhiều người đắc quả thánh hay ngộ được chân lý khi nghe Ngài thuyết Pháp. Không những thế, ngay cả hàng Thanh Văn, đệ tử Phật trong khi thuyết Pháp cũng đã độ được rất nhiều người nhập vào dòng Thánh. Như đạo sĩ Sàriputta chỉ nghe một câu kệ ngôn do Đại Đức Assaji thuyết đã trực nhận được lý nhân quả và chứng ngộ đạo quả Tu đà Hườn. Và chính sau khi Ngài Sàriputta được Đức Phật cho xuất gia vào hàng Tăng Lữ, một hôm Ngài lãnh sứ mạng đi giáo huấn nhóm Tỳ Khưu chia rẽ Tăng theo Đề Bà Đạt Đa. Khi Ngài giảng đạo lý xong tất cả các vị tỳ khưu ấy đều đắc quả A La Hán.
Tuy Sutà nguyên nghĩa là nghe và được đặc biệt dùng trong nghĩa nghe Chánh Pháp nhưng ta có thể suy ra rằng tất cả những kinh nghiệm học hỏi được bằng cách biết sử dụng giác quan nghĩa là biết nhận xét tinh tế khi mắt ta nhìn thấy sắc, tai ta nghe âm thanh, lưỡi ta nếm vị; nói một cách khác khi căn tiếp xúc với trần đều có thể giúp ta nhận thức được thực tướng của hiện tượng giới.
Ngày nọ, có một vị Tỳ khưu ni tên là Pàtàcàrà đến rà chân nơi một dòng sông. Đang khi bước lên bờ, thấy những giọt nước từ bàn chân mình nhỏ xuống theo dòng nước trôi đi và tan biến mất, cứ như thế vị ấy chú ghi nhận sự biến đổi không ngừng của hiện tượng và bỗng trực nhận được lý vô thường.
Trong kinh điển cũng có ghi chép nhiều trường hợp khác tương tự. Một hành giả có thể nghe một tiếng chim hót, thấy một chiếc lá rơi, một ngọn đèn phựt tắt, hay nhìn những bong bóng nước vỡ tan trên mặt hồ mà liễu ngộ được chân lý.
Tất cả những hiện tượng nội tâm hay ngoại giới,như dòng nước trôi chảy, một trạng thái tâm linh sinh lên rồi hủy diệt đều là những bài học quí giá cho những ai biết chăm chú nhìn, biết lắng tai nghe.
Trí huệ phát sinh do nghe, thấy, học hỏi, nhận xét như thế gọi là Sutà mayà pannà tức Văn huệ.
Có người cho rằng nếu chỉ nghe nhiều mà không suy luận để phân biệt chân giả và không thực hành theo chân lý thì cũng bằng không. Tỷ như Đại Đức Ananda, thị giả của Đức Phật, là người nghe nhiều học rộng mà không đắc đạo quả gì. Vấn nạn đó rất đúng, tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận rằng có đa văn quảng kiến mới có thể mở rộng tầm hiểu biết của mình. Sở dĩ Đại Đức Ananda không đắc đạo quả khi Phật còn tại thế, là vì chưa hành đúng theo những gì Ngài đã học hỏi được. Nhưng chính nhờ kiến thức uyên bác đó về sau Ngài đã chứng ngộ con đường giải thoát và hầu hết các kinh tạng để lại ngày nay do chính Đại Đức Ananda tụng thuật. Như thế Ngài đã đem đa văn của mình đóng góp không ít vào việc duy trì và phát huy nền văn học Phật giáo cho những thế hệ hậu lai chúng ta.
2- Suy tư: Vì văn huệ chưa được hoàn hảo, nên Đức Phật dạy phương pháp rèn luyện trí huệ thứ hai sắc bén hơn, hiệu quả hơn là Tư Duy hay Quán Xét về những điều mình đã thâu thập được bằng văn huệ.
Những gì ta nghe, thấy, học hỏi được chỉ là kiến thức vay mượn. Muốn tiêu hóa chúng để trở thành kiến thức của chính mình thì phải tinh luyện qua nhiều giai đoạn suy tư và phán đoán, nghĩa là phải phân tích, tổng hợp, loại suy hay tỷ giảo để tìm ra chân giả.
Trong bộ kinh Anguttara Nìkàya (Tăng Chi) Đức Phật có dạy:
"Không nên mặc nhiên chấp nhận một điều nào chỉ vì tập tục cổ truyền trao đến tay ta, hay chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh điển nào, cũng không chấp nhận chỉ vì người thốt ra câu ấy trông có vẽ hiền nhân khả kính, khả ái. Này người xứ Kalama, khi nào các người tự mình suy xét đắn đo để biết rằng những điều này hợp với Đạo Đức... những điều này đem lại an vui hạnh phúc; chừng ấy các người hãy chấp nhận và hành đúng theo như vậy".
Nhưng có phải mọi tư duy đều đem lại trí huệ hay không? Đức Phật dạy: có hai loại tư duy, Chánh Tư Duy (Sammàsankappa) giúp tâm thanh tịnh, sáng suốt thì trái lại Tà Tư Duy (Micchàsankappa) làm cho tâm ô nhiễm, lu mờ.
Vậy muốn phát triển trí huệ trước hết ta phải tránh những tà tư duy như suy nghĩ về dục lạc, suy nghĩ về thù oán, suy nghĩ về những phương kế ám hại người khác và thường xuyên chiêm nghiệm ba chân tướng vô thường, khổ não, vô ngã của hữu vi pháp.
Đại Đức Cùlapanthaka là một người ít học, Ngài cố gắng học một câu kệ ngôn chỉ có bốn hàng trong bốn tháng vẫn chưa thuộc. Vị sư huynh của Ngài thấy vậy khuyên Ngài nên hoàn tục nhưng Ngài quá quyến luyến đời sống đạo hạnh không nỡ từ bỏ. Đức Phật thấy đạo tâm của Ngài quá dõng mãnh nên đến đưa cho Ngài một chiếc khăn tay màu trắng, dạy mỗi buổi sáng cầm khăn đưa ra trước mặt trời. Ngài làm y như lời dạy của Đức Phật, chẳng bao lâu chiếc khăn bị bụi và mồ hôi bám vào trở nên dơ bẩn và ố màu. Thấy sự kiện đó, Ngài suy gẫm về tánh cách vô thường của đời sống, trực nhận được chân lý và đắc quả A La Hán.
Trí huệ phát sanh do suy xét chân tướng của vạn hữu gọi là Tư Huệ (Cintà mayà pannà).
3- Tham Thiền: Cuối cùng, một phương pháp rèn luyện trí huệ được Đức Phật khen ngợi và khích lệ hàng đệ tử ứng dụng triệt để là Tu huệ (Bhàvanà mayà pannà).
Phạn ngữ Bhàvanà có nghĩa là dập tắt vô minh và ái dục bằng phương pháp tu thiền định. Ta có thể dịch từ ngữ Bhàvanà mayà pannà một cách chính xác là: Định năng sinh Huệ.
Giống như một ly nước đục được giữ yên, khi bao nhiêu cặn bã đã lắng đọng thì nước sẽ trở nên trong suốt. Cũng vậy nếu được giữ an trú trong thiền định thì tâm sẽ trở nên trong sạch, sáng suốt và nhờ đó trí huệ phát sinh. Tu huệ vì thế được xem là phương tiện vững chắc nhất giúp hành giả đạt đến cứu cánh giải thoát.
Một người thường được nghe tiếng một thứ trà ngon và đã từng học lý thuyết về cách pha trà ấy như thế nào, nhưng nếu tự mình chưa pha lấy và uống qua một làn thì cũng không thưởng thức được hương vị của món trà quí này.
Trong kinh Dhammapada (Pháp Cú) Đức Phật dạy:
"Dầu thông suốt kinh luật mà không hành trì, cũng chỉ như kẻ mục đồng đếm bò cho kẻ khác. Người ấy không hưởng được hương vị giải thoát. Trái lại dù thuộc ít kinh luật nhưng cố gắng hành trì, từ bỏ Tham, Sân, Si hiểu biết chân chính, tâm tự tại, không vọng chấp. Người ấy ắt hưởng được hương vị giải thoát...". (Dhammapda 19, 20)
Thuở nọ có hai vị Tỳ khưu cùng xuất gia trong Giáo Pháp của Đức Phật. Một vị học nhiều hiểu rộng, thông suốt Giáo Pháp nhưng chưa đắc đạo. Còn vị kia tuy học ít nhưng chuyên cần tu niệm, không bao lâu đắc quả A La Hán. Một hôm trong buổi thảo luận đạo trước mặt Đức Phật, vị phàm Tăng nêu lên nhiều vấn nạn khúc mắc để khoe khoang tài bác học của mình. Đức Phật thấy vậy liền đặt ra nhiều câu hỏi khác về sự thực chứng đạo giải thoát. Hỏi đến đâu vị A La Hán trả lời đến đó do kinh nghiệm bản thân của mình; trái lại vị phàm Tăng không thể trả lời được, vì tự mình chưa giác ngộ. Câu chuyện trên chứng tỏ rằng Tu huệ quan trọng và siêu việt hơn Tư huệ và Văn huệ.
Nói tóm lại, vì tầm quan trọng của trí huệ trong vai trí đưa ta giải thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi và thể nhập chân lý; nên người Phật tử phải luôn luôn cố gắng rèn luyện trí huệ của mình bằng cả ba phương pháp Văn, Tư, và Tu.